Giới Thiệu Về Chiết Khấu Bộ Chứng Từ Là Gì, Chiết Khấu Chứng Từ Trong L/C

-

Đối với phần nghiệp vụ Thanh toán quốc tế, chắc hẳn bạn đã từng nhìn thấy thuật ngữ “Chiết khấu chứng từ”. Bạn đã hiểu chiết khấu chứng từ là gì, có bao nhiêu loại chiết khấu


Đối với phần nghiệp vụ Thanh toán quốc tế, chắc hẳn bạn đã từng nhìn thấy thuật ngữ “Chiết khấu chứng từ”. Bạn đã hiểu chiết khấu chứng từ là gì, có bao nhiêu loại chiết khấu chứng từ chưa? Đừng bỏ qua bài viết hữu ích dưới đây.

Bạn đang xem: Chiết khấu bộ chứng từ là gì

NEGOTIATION (CHIẾT KHẤU CHỨNG TỪ) NGHĨA LÀ GÌ?

Điều 10(b) UCP 500 định nghĩa thuật ngữ “negotiation” như sau: “Negotiation means the giving of the value for Draft(s) and/or document(s) by the bank authorised to negotiate”. Rắc rối của định nghĩa trên là đã sử dụng cụm từ “giving of the value” để mô tả hành động “negotiation”.

Các chuyên gia cho rằng bất cứ hành động nào bao gồm trả tiền; chấp nhận hối phiếu hoặc cam kết trả tiền;… đều có thể cấu thành hành động “giving of the value”.

Như vậy, theo định nghĩa trên; “negotiation” có thể được hiểu và sử dụng cho những hành động sau đây:

(i) trả tiền có truy đòi theo L/C trả ngay (paying an amount with recourse under sight L/C);

(ii) trả tiền miễn truy đòi (paying an amount without recourse);

(iii) chiết khấu (trả tiền có khấu trừ lãi – paying an amount with deduction of interest);

hoặc (iv) hứa sẽ trả tiền khi đáo hạn (a promise to pay at maturity).

Do định nghĩa trên hàm ý quá rộng nên những người thực hành L/C ở những khu vực khác nhau trên thế giới hiểu và sử dụng thuật ngữ “negotiation” theo những cách khác nhau. Và đã có không ít những cuộc tranh chấp liên quan đến vấn đề chiết khấu L/C.

Trong quá trình dự thảo UCP 600; có nhiều ý kiến trái ngược về thuật ngữ này. Có ý kiến cho rằng nên loại bỏ “negotiation” khỏi UCP; và cũng có ý kiến cho rằng cần giữ lại thuật ngữ này với một định nghĩa rõ ràng hơn. Cuối cùng, các chuyên gia đã thống nhất giữ lại thuật ngữ “negotiation” với định nghĩa mới.

Điều 2 UCP 600 định nghĩa thuật ngữ “negotiation” như sau.

“Negotiation means the purchase by the nominated bank of drafts (drawn on a bank other than the nominated bank) and/or documents; by either advancing or agreeing to advance funds to the beneficiary on or before the banking day on which reimbursement is due to the nominated bank”.

So với định nghĩa tại Điều 10 (b)(ii) UCP 500; định nghĩa mới tại Điều 2 UCP 600 rõ ràng và dễ hiểu hơn rất nhiều. Cụm từ “the giving of the value” tại Điều 10 (b)(ii) UCP 500 nổi tiếng vì sự khó hiểu nay được thay thế bằng từ “purchase” (mua) rất đơn giản. Đó là việc Ngân hàng được chỉ định mua các hối phiếu và/hoặc các chứng từ bằng cách trả tiền trước; hoặc đồng ý trả tiền trước cho người hưởng lợi vào ngày hoặc trước ngày làm việc của Ngân hàng; mà vào ngày đó, số tiền hoàn trả đến hạn phải trả cho Ngân hàng được chỉ định.

Hành động mua hối phiếu và/hoặc chứng từ của Ngân hàng được chỉ định được hiểu là hành động chiết khấu hối phiếu và/hoặc chứng từ. Thuật ngữ “negotiation” nay được hiểu với một nghĩa duy nhất; đó là “chiết khấu”.

CÓ THỂ CHIẾT KHẤU CHỨNG TỪ LOẠI L/C NÀO?

Xét theo phương thức trả tiền của L/C (availability of L/C), có 4 loại L/C khác nhau như sau:

(i) L/C chiết khấu (Negotiation L/C – L/C available by negotiation);

(ii) L/C trả ngay (Sight Payment L/C – L/C available by sight payment);

(iii) L/C chấp nhận (Acceptance L/C – L/C available by acceptance);

(iv) L/C trả chậm (Deferred Payment L/C – L/C available by acceptance).

Theo định nghĩa “negotiation” tại Điều 2 UCP 600, Ngân hàng được chỉ định có thể chiết khấu hối phiếu và/hoặc chứng từ xuất trình theo L/C; bao gồm: L/C chiết khấu, L/C chấp nhận và L/C trả chậm.

CHIẾT KHẤU CHỨNG TỪ HOẶC HỐI PHIẾU XUẤT TRÌNH THEO L/C CHIẾT KHẤU (NEGOTIATION OF DRAFTS AND/OR DOCUMENTS UNDER A NEGOTIATION L/C)

L/C chiết khấu có thể quy định việc trả tiền được thực hiện tại Ngân hàng được chỉ định bằng cách chiết khấu hối phiếu trả ngay. Ngân hàng được chỉ định có thể là một Ngân hàng bất kỳ (any bank); hoặc là một Ngân hàng được chỉ định đích danh (a named nominated bank); hoặc là một Ngân hàng xác nhận L/C (confirming bank).

Phương thức trả tiền của loại L/C này thường được thể hiện tại trường 41D (Available with) và 42C (Drafts at) của L/C với nội dung như sau:

FIELD 41D: AVAILABLE WITH ANY BANK/XYZ BANK/CONFIRMING BANK BY NEGOTIATION

FIELD 42 C: DRAFTS AT SIGHT

L/C quy định chiết khấu tại một Ngân hàng bất kỳ được gọi là L/C chiết khấu tự do; hoặc chiết khấu không hạn chế (a freely negotiable L/C or unrestricted L/C). Theo đó người hưởng lợi có thể tự do xuất trình hối phiếu; và chứng từ tại bất kỳ Ngân hàng nào để chiết khấu. L/C quy định việc chiết khấu được thực hiện tại một Ngân hàng được chỉ định đích danh (ví dụ tại XYZ Bank); hoặc tại Ngân hàng xác nhận được gọi là L/C chiết khấu hạn chế (restricted L/C). Theo đó; thông thường người hưởng lợi sẽ phải xuất trình tại Ngân hàng được chỉ định đích danh; hoặc tại Ngân hàng xác nhận để chiết khấu.

Sau khi chiết khấu (trả tiền cho người hưởng lợi); Ngân hàng được chỉ định gửi hối phiếu và chứng từ đến Ngân hàng phát hành; hoặc đến Ngân hàng xác nhận (tuỳ theo quy định của L/C) để được Ngân hàng phát hành; hoặc Ngân hàng xác nhận hoàn trả tiền.

Khái niệm chiết khấu hối phiếu và/hoặc chứng từ xuất trình theo L/C chiết khấu trong UCP 600 không có gì mới so với UCP 500.

CHIẾT KHẤU HỐI PHIẾU TRẢ CHẬM ĐÃ ĐƯỢC CHẤP NHẬN (DISCOUNTING AN ACCEPTED BILL OF EXCHANGE)

L/C đã được chấp nhận quy định việc trả tiền được thực hiện tại Ngân hàng phát hành hoặc tại một Ngân hàng được chỉ định (có thể một Ngân hàng được chỉ định đích danh hoặc là Ngân hàng xác nhận); bằng cách chấp nhận hối phiếu trả chậm 30, 60 hoặc 90… ngày kể từ ngày nhìn thấy hối phiếu; hoặc kể từ ngày ghi trên vận đơn. Hình thức trả tiền của loại L/C này thường được thể hiện bằng tiếng Anh tại trường 41D (Available with) và 42C (Drafts at) của L/C với nội dung như sau:

FIELD 41D: AVAILABLE WITH ISSUING BANK/XYZ BANK/CONFIRMING BANK BY ACCEPTANCE.

Sau khi thực hiện giao hàng, người hưởng lợi xuất trình hối phiếu trả chậm cùng với chứng từ cho Ngân hàng phát hành; hoặc Ngân hàng được chỉ định để đổi lấy chấp nhận. Ngân hàng phát hành/Ngân hàng được chỉ định nhận được chứng từ phù hợp với điều kiện L/C sẽ chấp nhận hối phiếu trả chậm và thông báo bằng điện cho người hưởng lợi về việc hối phiếu đã được chấp nhận; hoặc gửi trả lại cho người hưởng lợi hối phiếu đã được chấp nhận. Ngân hàng phát hành/Ngân hàng được chỉ định thực hiện nghĩa vụ trả tiền khi hối phiếu đáo hạn.

Về lý thuyết; một khi hối phiếu đã được chấp nhận nó đã trở thành một công cụ tài chính độc lập với L/C và có thể được mua bán, chuyển nhượng tại bất cứ Ngân hàng nào; hoặc bán cho công ty forfaiting.

Như vậy, người hưởng lợi L/C đã được chấp nhận có thể nhận được tiền hàng trước ngày đáo hạn bằng cách chiết khấu hối phiếu trả chậm đã được chấp nhận.

Điểm mới đáng lưu ý của UCP 600 là Ngân hàng được chỉ định có thể chiết khấu hối phiếu đã được chấp nhận bởi Ngân hàng được chỉ định đó. Điều này được quy định tại Điều 12 (b) UCP 600 như sau: “Sự chỉ định bởi Ngân hàng phát hành cho Ngân hàng được chỉ định chấp nhận hối phiếu hoặc cam kết trả chậm bao gồm cả sự uỷ quyền cho Ngân hàng được chỉ định được thực hiện trả trước hoặc mua lại hối phiếu đã được chấp nhận hoặc cam kết trả chậm của Ngân hàng được chỉ định.”

CHIẾT KHẤU CHỨNG TỪ L/C TRẢ CHẬM (DISCOUNTING A DEFERRED PAYMENT UNDERTAKING)

Khác với L/C chấp nhận; L/C trả chậm không yêu cầu người hưởng lợi phải xuất trình hối phiếu trả chậm kèm theo chứng từ. L/C trả chậm quy định việc trả tiền được thực hiện tại Ngân hàng phát hành hoặc tại một Ngân hàng được chỉ định (có thể là một Ngân hàng được chỉ định đích danh hoặc là Ngân hàng xác nhận); bằng cách cam kết trả chậm 30, 60 hoặc 90… ngày kể từ ngày nhìn thấy chứng từ hoặc kể từ ngày ghi trên vận đơn. Phương thức trả tiền của loại L/C này thường được thể hiện bằng tiếng Anh tại trường 41D (Available with) của L/C với nội dung như sau:

Sau khi thực hiện giao hàng; người hưởng lợi xuất trình chứng từ cho Ngân hàng phát hành; hoặc Ngân hàng được chỉ định để đổi lấy cam kết trả chậm. Ngân hàng phát hành/Ngân hàng được chỉ định nhận được chứng từ phù hợp; với điều kiện L/C sẽ gửi thông báo bằng điện cho người hưởng lợi cam kết trả tiền bộ chứng từ khi đáo hạn. Ngân hàng phát hành/Ngân hàng được chỉ định thực hiện trả tiền khi cam kết trả chậm đáo hạn.

UCP 500 không quy định rõ về việc Ngân hàng được chỉ định có thể chiết khấu cam kết trả chậm; đặc biệt là cam kết trả chậm của chính mình hay không. Do vậy, trước đây đã xảy ra nhiều cuộc tranh chấp liên quan đến vấn đề này; điển hình là vụ tranh chấp giữa Banco Santander và Banque Parisbas.

Vụ tranh chấp nói trên đã dẫn đến sự thay đổi của UCP; theo đó UCP 600 cho phép Ngân hàng được chỉ định có thể chiết khấu (trả trước) cam kết trả chậm của chính mình; và Ngân hàng phát hành có nghĩa vụ phải hoàn trả tiền cho Ngân hàng được chỉ định khi cam kết trả chậm đáo hạn.

Xem thêm: E Hồ Sơ Mời Thầu Là Gì - Hệ Thống Mạng Đấu Thầu Quốc Gia

Điều 7 (a) (vi) UCP 600 quy định “Việc hoàn trả số tiền trên chứng từ được xuất trình theo L/C chấp nhận hoặc L/C trả chậm sẽ được thực hiện khi đáo hạn; cho dù Ngân hàng được chỉ định đã trả trước hoặc mua lại trước khi đáo hạn hay không. Cam kết của Ngân hàng phát hành về việc hoàn trả cho Ngân hàng được chỉ định độc lập với cam kết của Ngân hàng phát hành đối với người thụ hưởng”.

Quy định tại Điều 7; và Điều 12 UCP 600 đã xác lập rõ những quyền độc lập của các Ngân hàng được chỉ định; sự chỉ định của Ngân hàng phát hành về việc chấp nhận hối phiếu; hoặc cam kết trả chậm sẽ bao gồm cả sự uỷ quyền cho Ngân hàng được chỉ định được thực hiện trả trước; hoặc mua lại những nghĩa vụ trả tiền của chính họ; và quyền được nhận tiền hoàn trả của họ không bị ảnh hưởng bởi những hành động trả trước; hay mua lại hối phiếu đã được chấp nhận; hoặc cam kết trả tiền của chính họ.

CHIẾT KHẤU CHỨNG TỪ XUẤT TRÌNH THEO L/C TRẢ NGAY

L/C trả ngay (Sight Payment L/C) và L/C chiết khấu (Negotiation L/C) đều là L/C trả ngay. Tuy nhiên; L/C trả ngay có một số đặc điểm khác với L/C chiết khấu như sau:

(i) L/C trả ngay không yêu cầu người hưởng lợi xuất trình hối phiếu trả ngay kèm theo chứng từ khi thanh toán;

(ii) L/C trả ngay quy định việc trả tiền được thực hiện tại quầy của Ngân hàng phát hành hoặc tại một Ngân hàng được chỉ định bằng cách trả ngay (available with Issuing Bank/XYZ Bank/Confirming Bank by sight payment);

(iii) Ngân hàng phát hành L/C trả ngay không uỷ quyền về việc chiết khấu.

Như vậy, về lý thuyết, với L/C trả ngay; người hưởng lợi không có cơ hội nhận được tiền trước bằng cách chiết khấu chứng từ L/C tại Ngân hàng của mình như L/C chiết khấu; mà thông thường phải đợi cho đến khi Ngân hàng phát hành hoặc Ngân hàng được chỉ định nhận được chứng từ phù hợp và trả tiền.

Thực tế cho thấy nhiều Ngân hàng, mặc dù không được uỷ quyền, vẫn sẵn sàng chiết khấu chứng từ phù hợp xuất trình theo L/C trả ngay; đặc biệt đối với những L/C được phát hành bởi những Ngân hàng có uy tín trong thanh toán.

Xét về tính pháp lý; Ngân hàng thực hiện chiết khấu L/C trả ngay có thể gặp rủi ro; đó là không thể nhân danh chính mình để khởi kiện Ngân hàng phát hành trong trường hợp không nhận được tiền hoàn trả từ Ngân hàng phát hành/Ngân hàng được chỉ định khi chứng từ xuất trình phù hợp với điều kiện L/C.

NGÂN HÀNG ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH CÓ NGHĨA VỤ PHẢI CHIẾT KHẤU CHỨNG TỪ

Điều 12 (a) UCP 600 quy định rằng trừ phi Ngân hàng được chỉ định là Ngân hàng xác nhận, uỷ quyền thực hiện chiết khấu không ràng buộc Ngân hàng được chỉ định phải có nghĩa vụ chiết khấu; trừ khi Ngân hàng được chỉ định đồng ý và thông báo điều đó cho người hưởng lợi.

Như vậy, mặc dù được uỷ quyền bởi Ngân hàng phát hành nhưng Ngân hàng được chỉ định có quyền từ chối chiết khấu hối phiếu và/hoặc chứng từ xuất trình theo L/C.

CHIẾT KHẤU CHỨNG TỪ TRUY ĐÒI VÀ CHIẾT KHẤU CHỨNG TỪ MIỄN TRUY ĐÒI

Về hình thức chiết khấu; chiết khấu có 2 loại, gồm: chiết khấu truy đòi (negotiation with recourse) và chiết khấu miễn truy đòi (negotiation without recourse).

CHIẾT KHẤU TRUY ĐÒI

Là việc Ngân hàng được chỉ định có quyền yêu cầu người hưởng lợi hoàn trả lại số tiền đã được Ngân hàng Ngân hàng được chỉ định trả; cộng với lãi phát sinh trong trường hợp Ngân hàng được chỉ định không nhận được tiền hoàn trả từ Ngân hàng phát hành hoặc Ngân hàng xác nhận (nếu có).

CHIẾT KHẤU MIỄN TRUY ĐÒI

Là việc Ngân hàng chiết khấu mua đứt hối phiếu và/hoặc chứng từ; và chịu rủi ro trong trường hợp Ngân hàng chiết khấu không nhận được tiền hoàn trả từ Ngân hàng phát hành hoặc Ngân hàng xác nhận (nếu có).

Định nghĩa tại Điều 2 UCP 600 không đề cập đến hình thức chiết khấu: có truy đòi và chiết khấu miễn truy đòi. Tuy nhiên; trên cơ sở quy định tại Điều 12 (a) UCP 600; có thể hiểu rằng Ngân hàng được chỉ định hoàn toàn có quyền quyết định đồng ý hoặc từ chối chiết khấu; cũng như hoàn toàn có quyền lựa chọn hình thức chiết khấu: truy đòi hoặc miễn truy đòi. Tuy nhiên; cần lưu ý rằng nếu như Ngân hàng được chỉ định đồng thời cũng là Ngân hàng xác nhận; thì Ngân hàng được chỉ định có nghĩa vụ phải chiết khấu; và phải chiết khấu miễn truy đòi khi chứng từ phù hợp được xuất trình (Điều 8 (a)(ii) UCP 600; và Điều 12(a) UCP 600).

KẾT LUẬN

Định nghĩa mới về thuật ngữ “negotiation” cùng với một số Điều quy định liên quan của UCP 600 chắc chắn sẽ làm cho cộng đồng những người thực hành L/C ở những khu vực khác nhau trên thế giới; cả Đông và Tây; đi đến một cách hiểu chung và thống nhất về nghiệp vụ chiết khấu trong giao dịch L/C.

Trên đây là bài viết cung cấp thông tin về Chiết khấu chứng từ trong L/C. Hi vọng UB Academy đã giúp bạn hiểu hơn về phần kiến thức nghiệp vụ này. Đừng quên theo dõi Chuyên mục điểm tin UB Academy và Diễn đàn U&Bank để thảo luận và cập nhật những tin tức mới nhất về ngành Ngân hàng.

Nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ và nghiệp vụ xác nhận L/C bởi ngân hàng Thông báo giống nhau ở một điểm là tiền hàng đều được ngân hàng Thông báo trả trước cho người XK, rồi sau đó ngân hàng này mới đòi lại tiền từ ngân hàng Mở bằng cách xuất trình bộ chứng từ đã nhận được từ người XK. hạch toán thuế nhà thầu

Vậy điểm khác nhau giữa nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ và nghiệp vụ xác nhận L/C là gì?

Xét về mặt rủi ro, nghiệp vụ xác nhận L/C mang đến rủi ro cao hơn cho ngân hàng Thông báo, vì lúc này bộ chứng từ chưa được ngân hàng Mở đồng ý thanh toán, ngân hàng Thông báo đã chủ động chuyển tiền cho người XK theo đúng bản chất của nghiệp vụ xác nhận, sau đó ngân hàng Thông báo mới dùng bộ chứng từ này đi đòi tiền ngân hàng Mở (để giảm rủi ro, ngân hàng Thông báo thường yêu cầu ngân hàng Mở ký quỹ trước 100% tiền hàng).

Còn đối với nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ, ngân hàng Thông báo chỉ đồng ý chiết khấu bộ chứng từ, nếu bộ chứng từ đó được ngân hàng Mở chứng thực là đã hợp lệ (thường là bước này ngân hàng Thông báo sẽ scan trước chứng từ gửi cho ngân hàng Mở xem và giúp kiểm tra trước tính hợp lệ - có thể tốn phí hoặc không tốn phí tuỳ mối quan hệ giữa hai ngân hàng).

Điểm khác nhau thứ hai là nghiệp vụ xác nhận được triển khai ngay từ lúc Mở L/C, vì người XK không tin vào năng lực tài chính của ngân hàng Mở. Còn nghiệp vụ chiết khấu chứng từ thường phát sinh trong trường hợp ngân hàng Mở chậm thanh toán hoặc thanh toán trả chậm, người XK muốn nhận tiền nhanh hơn thoả thuận đã cam kết.

*

Bàn thêm về việc giao chứng từ và chuyển tiền giữa Ngân hàng Thông báo và ngân hàng Mở. Ngân hàng Thông báo thì muốn: (1) chỉ cần đánh một bức điện đòi tiền (telephraphic transfer – t/t), thì ngân hàng Mở sẽ phải chuyển tiền, bộ chứng từ sẽ được gửi sau/đến sau. Rủi ro sẽ thuộc về ngân hàng Mở (vì bộ chứng từ có thể bất hợp lệ, hoặc thất lạc chứng từ). Còn ngân hàng Mở thì muốn: (2) phải nhận được bức điện đòi tiền (telephraphic transfer – t/t) và nhận được bộ chứng từ rồi mới chuyển tiền cho ngân hàng Thông báo.

Do vậy mà trên L/C được mở ra, ngân hàng Mở thường yêu cầu nội dung: “TTR unacceptable” = “Telephraphic Tranfer Reimbursement”. Ghi như vậy nghĩa là ngân hàng Mở muốn như trường hợp thứ (2), và tạm dịch là “không cho phép ngân hàng Thông báo đòi tiền bằng điện” (ngân hàng Mở phải nhận được chứng từ rồi mới trả tiền cho ngân hàng Thông báo).

Trong trường hợp L/C không phải là L/C xác nhận bởi ngân hàng Thông báo, hoặc người XK không dùng dịch vụ chiết khấu bộ chứng từ tại ngân hàng Thông báo, thì việc thoả thuận như mong muốn (1) “TTR unacceptable” hay như mong muốn (2) “TTR acceptable” trên L/C không quá quan trọng đối với hai ngân hàng. Nhưng ở trường hợp dùng L/C xác nhận bởi ngân hàng Thông báo, hoặc người XK dùng dịch vụ chiết khấu bộ chứng từ tại ngân hàng Thông báo L/ thì việc thoả thuận rõ “TTR unacceptable” hay “TTR acceptable” là rất quan trọng. Xét ở khía cạnh cân bằng rủi ro và hợp lý thì:

Nếu dùng L/C xác nhận bởi ngân hàng Thông báo (và trước đó ngân hàng Mở chưa ký quỹ tiền hàng cho ngân hàng Thông báo), thì trên L/C sẽ ghi “TTR acceptable”;

Nếu người bán muốn chiết khấu bộ chứng từ tại ngân hàng Thông báo, trên L/C sẽ ghi “TTR unacceptable”.

Tuy nhiên, cũng tuỳ mối quan hệ giữa hai bên ngân hàng mà mục này có thể ghi ngược lại như cách phân tích thông thường.

Trên đây là những điểm khác nhau giữa nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ và xác nhận L/C. Bài viết có sự cố vấn, phân tích về việc ứng dụng trong thực tiễn của Giảng viên tại Xuất nhập khẩu Lê Ánh.

Bạn cần tìm hiểu kĩ hơn về các loại vận đơn để phục vụ cho công việc của bạn tại doanh nghiệp xuất nhập khẩu và Logistics, bạn cần học ngành xuất nhập khẩu? Bạn có thể tham gia các Khóa học  tại Xuất nhập khẩu Lê Ánh. Khóa học xuất nhập khẩu thực tếđược giảng dạy bởi đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và Logistics đang làm việc tại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, logistics lớn trong nước và quốc tế.